“
VỀ NGUỒN”
Viết lại câu
chuyện về Quê hương như là chuyện huyền thoại nhưng cũng là sự thực. Nó đã biến
đổi trên mảnh đất làng Kè Sặt của chúng ta qua những câu chuyện kể lại của bậc
Tiền bối đã sống và góp phần xây dựng quê hương Kẻ Sặt hàng trăm năm về trước.
Chuyện
kể lại rằng: Từ xa xưa lắm rồi có lẽ đã trải qua hàng năm sáu trăm năm sau công
nguyên vào thế kỷ XV. Năm 1500 ở vùng đất này chưa có tên tuổi mà chỉ là vùng
đất phù sa do dòng sông Tam Cửu bắt nguồn từ sông Hồng Hà qua phố Hiến nay là
thị xã Hưng Yên, dòng sông qua Kẻ Sặt nối vào sông Luộc tại thị xã Hải Dương
(Nay là thành phố Hải Dương – năm 2000) rồi qua Phú Lương chạy ra biển.
Từ
mảnh đất này còn có đường giao thông thủy từ đây đi phố Hiến ra sông Hồng đi
vào miền Thanh – Nghệ Tĩnh, và cũng từ đây đi ra biển Đông (Hải Dương) qua sông
Hàn tới Hải Phòng, đi theo ven biển tới Trà Cổ - Quảng Ninh sang Trung Quốc.
Cũng từ đó tới nay bao biến cố đổi thay nhưng chẳng còn để lại một bút tích văn
bia gì làm bằng chứng của quê hương này mà chỉ được nghe lời kể lại như sau:
Vào
cuối thế kỷ XV, năm 1500 có một vị quan tước Triều đình húy danh là Chu Tam
Xương quê vùng Nghệ An. Sau khi người đã hoàn tất công lao giúp Triều đình an
dân đất nước, người được mãn nhiệm và được Triều đình ban đặc ân cho người được
quyền đi tìm nơi đất tốt để khai khẩn xây dựng bản doanh theo ý muốn, do đó người đã được chỉ sắc Vua ban ra vùng tỉnh Đông. Người đã
cùng người em gái húy danh là bà Chu Thị Liệt cùng con cháu họ tộc ra tỉnh Đông
sinh cơ lập nghiệp. Khi ra tới tỉnh Đông cùng quân sư cắm lập bản doanh tại khu
Nam
làng Sãi (nay gọi là Nghè Sãi). Nghè Sãi cũng có thể là Nghè miếu thờ cụ Chu
Tam Xương. Còn bà Liệt và con cháu họ tộc lập trang trại tại Ngấn Ngoài phía từ
bến xe đầu phố Sặt ra tới đương ga cũ nay gọi là Đo đạc (Thế kỷ 20 còn lập nên
chợ trâu, chợ lớn ở đó), sau đó người mộ thêm dân cư các nơi về khai khẩn.
Nhưng chẳng bao lâu thì Triều đình biến động, giặc phương Bắc lan tràn quấy phá
đất nước và càn quét truy tìm các bậc Tiền nhân để hãm hại, cảnh loạn ly bùng
nổ, bản doanh của Cụ Xương bị tàn phá, Cụ cùng số tùy tùng bị giặc bắt sau đưa tất cả về Gò Cao (Nay là dinh thự họ
Đào gọi là ngà ông Trùm Tám từ đầu thế kỷ XIX). Cụ Xương bị giặc cắt đầu đem về
nộp cho Chúa phương Bắc, còn trang trại của bà Liệt cũng thành bình địa. Sau đó
Bà cùng thân tín gia tộc chạy loạn tránh được giặc, trở về chôn cất thi thể của
Anh và các thân tín tại nơi pháp trường đó. Theo câu chuyện kể lại: “Khi Bà về
thấy Anh bị mất đầu rồi, thì Bà đúc một đầu vàng cùng tượng vàng chôn theo cùng
thi thể của Anh mình”.
Do đó sau mấy trăm năm khi làng Sặt
hình thành, thì cạnh Gò có đào hào tiêu nước cốt thủy ra sông làm cho đất xói
mòn vào tới phần mộ của Cụ và đầu vàng tượng vàng dần dần theo cốt thủy bật ra,
Ông Trùm Tám đã nhận được hai lần.
Lại kể rằng: “Sau khi Bà Liệt đã
chôn cất thi thể của Anh và các tùy tùng rồi, Bà không về lập lại trại cũ nữa
mà Bà đã cùng những người thân sống sót đã chuyển vào cắm lập trang trại mới
tại Gò Cao (bây giờ là khu nhà Mụ). Trang trại được hình thành Bà cùng người
thân khai khẩn đất hoang để sản xuất cây trồng. Lúc đó giặc giã đã tan, sự bình
yên đã ổn định, cùng lúc đó dân chúng ở khắp nơi thấy vùng đất có nhiều màu mỡ
nên đất tốt thì cò đến đậu, thế rồi dân cư khắp nơi dần dần cùng về khai khẩn
và lập nên các trang trại mới, đật tên các trang trại mới khai khẩn mới là:
Trại Ngái, Xóm Ngái - Trại Bến sông Khu Hạ - Trại Giữa, Xóm Đình, Trại Cổng Giỏ
Khu Thượng, Trại Vành Lao Xóm Kết Khu Trung v.v… Sau đó các trang trại các xóm
cứ phát triển rộng ra, nối tiếp nhau cho đến khoảng thế kỷ XVII các Trang trại
hình thành thôn Trang. Để tôn vinh bà Liệt nên đã lấy tên thôn là “Liệt Thôn”
và sau đó đổi thành thôn “Trang Liệt”, có û nghĩa là: Trang là các trang trại hợp lại thành thôn, còn Liệt là suy tôn
bà Liệt. Cho đến thời kỳ Vua Trang Tôn lên ngôi phải tránh húy Vua nên Trang
Liệt phải đổi thành Tráng Liệt.
Vào thời điểm đó xung
quanh Tráng Liệt đã có nhiều thôn như Chanh Ngoài, Chanh Trong, thôn Châu Khê
v.v…thì việc giao lưu giữa Tráng Liệt với các thôn có nhiều quan hệ về mọi mặt,
chẳng hạn như thôn Châu Khê và Làng Sặt đến ngày nay còn để lại truyền thuyết
như: câu chuyện con Rồng, Mắt Rồng và Lũy GiaTô, Ao Đức Bà, Khu Vườn Thánh v.v…
Những câu chuyện về nguồn gốc của
quê hương Kẻ Sặt vẫn chỉ là những truyền thuyết vì không đủ tài liệu thuyết
phục.
“Ngày 20/12/1972 , cha Đào Nguyên
Thống, trong bài “Lịch sử làng Tráng Liệt” đã dựa vào ít điều truyền khẩu, dè
dặt đưa ra một giả thuyết “ Quê hương Kẻ Sặt bắt đầu hình thành từ hậu bán thế
kỳ thứ 16, khoảng năm 1554. Ông Tổ người làng Vân Đồn,tỉnh Nam Định, hiệu là
Tráng, kết hôn với bà Liệt, quê ở đâu không rõ…Hai ông bà chung sống với nhau,
sinh được 7 người con, 5 trai 2gái. Vào thời giặc giã nhiễu nhương, hai ông bà
đưa con cái và ít người thân cận di cư tới một nơi gọi là Laga và lập trại ở
đó. Thấy làm ăn phồn thịnh, một số người khác xin nhập trại, phần lớn là người
tỉnh Nam
Định. Sau đó tên của hai ông bà được dùng để đặt tên cho khu vực tân sinh này.
Danh hiệu Tráng Liệt chào đời từ đó…”
Tiếp theo là ông Vi Sơn, tác giả
cuốn “ Nghĩ về quê hương Tráng Liệt Bình”, xuất bản ngày 9/8/1973, cũng căn cứ
vào một vài nguồn truyền khẩu đưa ra giả thuyết: “Vào năm 1553, có hai ông bà
tên là Phạm Ngọc Minh và Lê Thị Thông, đã theo đạo công giáo, từ Thanh Hóa
phiêu bạt đến Hải Dương vì lý do sinh kế. Lúc đầu, ông bà
sống tại làng Châu, cách Kẻ Sặt khoảng 3 cây số về hướng đông nam. Sau ông bà
lại đến lập nghiệp ở khoảng 4 cây số, về phía bắc làng Châu. Đó chính là khu
vực cầu sắt và nhà ga, thuộc Kẻ Sặt ngày nay… Vua Lê Thế Tôn (1573-1599) vì
thấy chữ Trang trùng với tên Tổ phụ là Lê Trang Tôn (1553-1548) nên Ngài đã ra
dụ đổi thành chữ Tráng, để tránh húy và thêm chữ Bình để phân biệt với làng
Tráng Liệt thuộc huyện Thanh Hà…”[1]
Và theo lời truyền tụng của các bậc
tiền nhân trong dân xứ và một số đàn anh trong Giáp Cường Bản nghe và thuật
lại:
“ Vào cuối thế kỷ 14 trở về trước,
địa điểm làng chúng ta là một cánh đồng trống, diện tích khoảng 400 mẫu, tại
đây tứ phía đều có đường giap thông thủy bộ rất đẹp cho địa thế rất tiện lợi
cho làng ta có một cảnh phồn thịnh về kinh tế và thương mại.
Theo lược sử truyền ngôn kể lại:
Nguyên tổ chúng ta có một bà tên Liệt (nghe đâu dòng họ Phạm), Bà
là người làng Châu Khê, cách làng ta bấy giờ chừng 3km. Bà xuất giá kết hôn
cùng một vị quan đại thần Triều đình Lê tên Chu Y Cương (nghe nói Bà hạ sinh
02 con gái, không có con trai). Ít lâu chồng chết, Bà phải rời kinh đô trở
về đồng ruộng làm ăn, bấy giờ Nhà Vua không có ngân khoản nào để cấp dưỡng, nên
đặc ân cho bà được tự do lựa chọn địa điểm để lập kế sinh nhai. Vì thế, Bà đã
chọn địa điểm sinh sống tại cánh đồng trống kể trên tức làng Tráng Liệt Bình.
Đầu tiên, Bà đặt địa điểm cư trú tại Máng Độc gần làng Vĩnh Lại (tức làng
Sải bây giờ). Địa điểm này về phía sông Sặt, vì khi ấy có cầu qua sông (bây
giớ mới có cầu gọi là cầu Sắt hay cầu Sải vì cầu này giáp cư giáp canh của hai
địa phận).Mỗi khi muốn qua sông để ra quốc lộ số 5 phải nhờ đò, bấy giờ có
đò ông Chất (gọi là đò ông Ác) đò chở qua sông Phúc Bố (gọi là làng
Búa) hay còn gọi là d0ò ngang qua bên bờ Cửu Trinh. Tại nơi đây gọi là Máng
Độc (nơi đó có hào máng nước chảy dơ bẩn nên gọi là Máng Độc). Bà cùng
hai con sinh sống được ít năm, tại đó về sau sinh ra trộm đạo cướn bóc đêm ngày
luôn luôn, cùng xảy ra nhiều tai nạn khủng khiếp. Vì Mẹ góa con côi nên sợ sệt
rời bỏ nơi đây lui trở về địa điểm giáp đê gọi là khu Đằng Vối, và sau này cũng
là địa điểm lập làng đầu tiên gọi là khu Thượng bây giờ. Tục truyền kể lại: Bà
Nguyên Tổ tên Liệt, nên Bà sinh sống nơi đó gọi là Thôn Liệt (tức xóm Liệt
Thôn). Lúc đó vào đầu thế kỷ 15 (1533) đời Lê Trang Tôn. Về sau Thôn Liệt
này dân cư mỗi ngày một đông và ngày càng phồn thịnh”[2].
Lại kể rằng Đạo KiTô xâm nhập vào
làng Sặt như sau:
Khi quê hương thứ 2 của bà Liệt đã hình thành
thôn, làng thì lại vỡ đê Sông Hồng, lụt hồng thủy đã làm tràn ngập khắp các
vùng Hưng Yên, Hải Dương. Trước đó các khâm sai của Bồ Đào Nha- Bồ Đào Nha,
Pháp, Ý…cũng đã thâm nhập tuyên truyền Đạo KiTô vào Việt Nam, do đó đã có ảnh
hưởng tới vùng tỉnh Đông. Nên khi vỡ đê nước tràn về Sặt nhưng trang trại Bà
Liệt ở gò cao, thấy các bức ảnh tượng
KiTô giáo từ Châu Khê trôi dạt vào xung quanh thì cháu chắt bà Liệt cho là sự
màu nhiệm của Thiên Chúa đem đến cho thôn Trang nên đã cùng nhau vớt lên lau
khô, đem trịnh trọng đặt vào nơi tôn nghiêm để chiêm ngưỡng (lúc đó chưa hiểu gì về giáo lý). Sau đó các
thầy Thừa sai nắm bắt được tình hình nên đã lui tới tuyên truyền Đạo KiTô được nảy nở
trên mảnh đất của Bà Liệt. Rồi cộng theo với việc truyền bá thì còn có nhiều
đầu mối của các họ tộc khắp nơi đã có đạo như họ Đào từ miền Nam Định, họ Phạm từ đất tỉnh Đông; họ Quách, họ Vũ từ các
nơi sát nhập về nơi đất tốt cò đậu này đã làm cho xứ đạo KiTô giáo chóng hình
thành rộng ra hơn. Đến thế kỉ 17-18 đã thành làng Đạo KiTô toàn tòng.
Chuyện kể rằng: “Các ảnh tượng từ Châu Khê trôi theo dòng nước xoáy vào
trang trại bà Liệt, những ảnh tượng đó là do các bậc quí phái của Châu Khê làm
đồ mỹ nghệ ở Hà Thành tức là Hàng Bạc – Hà Nội bây giờ, các vị có điều kiện đi
xuất dương (du lịch ở các nước Châu Âu thấy các bức họa đẹp thì mua vế để chiêm
ngưỡng chưa phải là làng theo đạo KiTô giáo, nhưng khi nước lũ cuốn sang làng
Tráng Liệt, nên từ khi làng Sặt hình thành đạo KiTô cho đến nay thì nhân dân
Châu Khê vẫn nhận là đạo KiTô giáo từ Châu Khê sang Sặt và đạo KiTô là của Châu
Khê”.
Hiện nay Châu Khê cũng chẳng có gì để chứng minh của đạo KiTô, nhưng có một
ao của làng nhượng cho nhà xứ Kẻ Sặt đến nay vẫn gọi là Ao Đức Bà và có tên gọi
là Làng Gia Tô. Theo tuyên truyền thì khi làng Sặt bị bách Đạo Gia Tô các ông
kỳ hào, kỳ mục, Cha ông người Sặt bấy giờ chạy sang Châu Khê sống thì được nhân
dân Châu Khê che chở lấy khu lũy làng hiểm trở để cho các vị kỳ mục của Sặt ẩn
nấp cho đến khi hết đợt Bách Đạo. Do từ đó đến nay nhân dân hai làng vẫn giữ
được tình cảm và gắn bó với nhau.
Chuyện kể về xây dựng Khu Thánh Đường là: sau khi Trịnh-Nguyễn phân
tranh thành các tỉnh Đàng Trong và các tỉnh Đàng Ngoài rồi Chúa Nguyễn xuống chiếu Bách Đạo Gia Tô lần
2. Lần này các tín đồ và nhân dân Sặt
lại bị tàn sát và cuộc li tán tan tác.
Sau vụ thảm sát đó rồi nhà Nguyễn suy tàn, dân làng Tráng Liệt lại được hồi
phục và càng phát triển lớn ra về mọi mặt, nhất là về đạo KiTô, do đó dân làng
đã xây lại ngôi nhà thờ để lấy nơi tôn thờ Thiên Chúa.
Thánh Đường được xây dựng tại khu Trang Trại Bà Liệt (là nhà Phước bây
giờ). Khi có Thánh Đường rồi thì các tổ chức của giáo hội được hình thành và
được các thầy cả của Y Nha Pho-Bồ Đào Nha cử về trông nom coi sóc và truyền dạy
giáo lí chăm lo phần tâm hồn giáo dân.
Nhưng rồi cuối thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XIX nhân dân thôn Tráng Liệt lại
bị Minh Mạng, Tự Đức Bách Đạo Gia Tô. Cha ông người làng Sặt lại bị đầu rơi máu
đổ một lần nữa và nhiều người bị bắt đi phân sáp ở các làng như: Cương + Hai
+Giọn xã Thái Dương; Lí Đỏ xã Tân Việt; Nhân Kiệt xã Hùng Thắng, Phú Thứ xã Cổ
Bì; Bình Cách, Quàn xã Bình Xuyên huyện Bình Giang. Còn nhiều người chạy lên
phía Bắc và nhiều nơi khác. Lần này làng Sặt bị chém đầu 26 ông trong đó có cả
linh mục Thầy Khang và các ông Khán, ông Trưởng và cả các ông là lính lệ của
thời đó, nhưng do theo đạo không chịu bước qua thập giá nên cũng bị chém đầu.
Sự kiện này còn in nét đậm và lưu truyền trong nhân dân Tráng Liệt đến ngày
nay.
Sau cuộc Bách Đạo Gia Tô lần ba rồi, thì dân chạy loạn lại tiếp tục về xây
dựng lại thôn Tráng Liệt mỗi ngày càng hưng thịnh hơn. Đến thế kỉ XIX Pháp sang
xâm lược nước ta lấy danh nghĩa là bảo hộ thì làng Tráng Liệt được tổ chức theo
khu vực hành chính và lúc đó dân số tăng nhiều, làng được mở rộng và sát nhập
khu xóm chùa, Vành Lao, Ngõ Kết của họ Dương rồi thành lập xã và lấy tên là xã
Tráng Liệt và tên làng lấy là làng Kẻ Sáp ( ý Kẻ Sáp là: những kẻ có đạo
phải đi phân tán khỏi làng và phải sát nhập vào các làng khác). Do đó gọi là
làng Kẻ Sáp (lấy từ điển chữ Nôm). Rồi cứ dần tên Sáp thành tên Sát, rồi sang
đến thế kỷ XX khi xây dựng lại Thánh Đường tại trung tâm làng thì tên gọi là
nhà thờ Kẻ Sặt, giáo xứ Kẻ Sặt; đồng thời cũng gọi theo là làng Kẻ Sặt, giáo xứ
Kẻ Sặt cho đến nay.
Khi hình thành xã theo tổ chức hành chính lúc đó thì xã Tráng Liệt thuộc
Tổng Thị Chanh và thôn Châu Khê và Tổng Thị Chanh thuộc phủ Năng An, rồi đổi là
Bình An. Sau đó thành huyện Bình Giang, từ đầu Pháp thuộc thì khu đồn binh của
Pháp đặt tại cạnh khu Hạ vì làng Sặt chia làm ba khu: khu Thựơng là trang
trại chính của bà Liệt, khu Trung là nơi trung tâm giữa làng, Khu Hạ là khu
giáp đồn binh của Pháp. Sau đó Pháp cho chuyển thủ phủ huyện về đồn binh Sặt
gọi là huyện lị Bình Giang, có bộ máy hành chính của quan lại dưới quyền của
Pháp thuộc.
Cũng khoảng thế kỷ XIX có 5 cụ thuộc 5 giòng họ, một là cụ Bang Tá Vấn họ
Phạm cha đẻ cụ Trùm Chỉnh, hai là cha đẻ cụ Trùm Châm, ba là cha đẻ cụ Trùm
Sưu, bốn là cha đẻ cụ Trùm Xướng và một cụ thuộc họ Đào đã cùng nhau ra khai
khẩn sình lầy ven sông Sặt từ cạnh khu Hạ lên đến Thịnh Vạn (đầu cầu Sặt bây
giờ) cho đến khi mở đường quốc lộ 20 và Pháp bắc cây cầu qua sông gọi là cầu
Sắt, rồi là cầu Vạn hoặc cầu Sặt…
Từ đó dân cư và con cháu các cụ ra xây dựng cơ ngơi nhà cửa dần dần trở
thành khu trù phú nhất làng Sặt và dần dần dân các nơi về lập nghiệp buôn bán
nên gọi là phố Sặt và là khu 4 của làng Sặt. Đồng thời đạo Kitô được mở rộng
ra, đến năm1922 giao dịch di chuyển nhà thờ Thánh Đường về giữa làng, đầu giáp
khu Thượng, hông phải giáp khu Hạ, mặt tiền hông trái giáp khu Trung và thành
lập khu Nhà Chung tại đầu nhà thờ bây giờ. Còn khu nhà thờ trang trại Bà Liệt
cả nhà xứ xây dựng thành khu nhà Phước tức nhà Mụ ngày nay. Đồng thời khu phố
các cụ cũng xây dựng một ngôi đền thờ Thánh An Tôn vào năm 1923 và đặt tên là
họ An Qúy. Cũng từ đó nhân dân Kẻ Sặt
mỗi ngày phát triển đông đúc, việc làm ăn đời sống được phát triển và phát
triển nhíều ngành nghề thủ công và kinh doanh buôn bán với nhiều nơi. Do đó các
cụ xây dựng nên một khu chợ lớn goi là chợ Sặt, trên bến dưới thuyền, mỗi ngày
được thuận lợi cả về giao thông thủy bộ với khắp nơi. Ngoài ra còn có các khu
đồng ruộng phì nhiêu màu mỡ phát triển cây trồng 4 mùa như: lúa, khoai, su hào,
bắp cải, bí đao, thuốc lào… nên đời sống dân cư được sung túc nhất vùng. Về mặt
giáo hội thì Tòa Rôma xác nhận Kẻ Sặt là xứ đạo lớn (chính xứ) và đã cử các vị
Linh mục sang coi giữ xứ đạo Kẻ Sặt để đáp ứng nhu cầu cho việc hành đạo của
giáo dân mỗi ngày một đông. Vì vậy đến năm 1929 (thế kỷ XX) do được sự tài trợ
của Tòa Rôma, của Pháp và sự đóng góp của giáo dân nên Hội đồng giáo xứ lúc đó
đã được lập nên và cùng Hội đồng kỳ hào và Linh mục chính xứ là Iphanho có tên
là Cha Phê đã quyết định xây lại nhà thờ lớn là nhà thờ hiện nay (khởi công xây
dựng đến hoàn thành là 4 năm trời 1929-1933).
Thôn Trang Liệt, làng Tráng Liệt, xã Tráng Liệt và xứ đạo Kẻ Sặt để người
Kẻ Sặt chúng ta dù sống ở nơi đâu chúng ta vẫn luôn luôn hướng về quê hương đất
mẹ và thể hiện người Kẻ Sặt luôn giữ gìn đức tin làm cho cuộc sống thực sự tốt
đời đẹp đạo, đồng thời hòa mình vào cuộc
sống của dân tộc, được chung sống hòa bình, hạnh phúc với nhân loại tiến bộ.
Dù ở góc độ nào, hoặc là giả định
nào, dù là truyền thuyết thì mọi người quê hương Kẻ Sặt chúng ta cùng nhau đời
đời ghi ơn sâu nặng những người có công xây dựng nên thôn Trang Liệt, làng
Tráng Liệt, xã Tráng Liệt, xứ Kẻ Sặt .
Theo ghi chép của Phạm Văn Quý
Trong “Kẻ Sặt ngày ấy-bây giờ”
![]() |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét